CÂY ĂN QUẢ NUÔI CẤY MÔ – HƯỚNG ĐI MỚI

注释 · 25 意见

CÂY ĂN QUẢ NUÔI CẤY MÔ – HƯỚNG ĐI MỚI CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CHẤT LƯỢNG CAO TẠI QUẢNG NAM



1. Bối cảnh triển khai công nghệ nuôi cấy mô trong sản xuất cây ăn quả



Trong bối cảnh sản xuất nôn

CÂY ĂN QUẢ NUÔI CẤY MÔ – HƯỚNG ĐI MỚI CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CHẤT LƯỢNG CAO TẠI QUẢNG NAM

 

1. Bối cảnh triển khai công nghệ nuôi cấy mô trong sản xuất cây ăn quả

 

Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp truyền thống đang đối mặt với nhiều thách thức như sâu bệnh, thoái hóa giống, năng suất thấp và biến đổi khí hậu, việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ nuôi cấy mô, được xem là hướng đi tất yếu nhằm nâng cao chất lượng giống cây trồng. Tại tỉnh Quảng Nam, dự án “Ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô để sản xuất giống và trồng cây ăn quả chất lượng cao” được triển khai đã mở ra cơ hội để nông dân tiếp cận với các giống cây sạch bệnh, đồng đều và có tiềm năng năng suất vượt trội.

 

Dự án cấp bộ này được triển khai trong giai đoạn 2013–2016 với tổng kinh phí 4,7 tỷ đồng. Chủ nhiệm dự án là cử nhân Huỳnh Hữu Thắng, đơn vị chuyển giao công nghệ từ Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Trọng tâm của dự án là tiếp nhận thiết bị, quy trình công nghệ nuôi cấy mô và kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng để sản xuất cây giống chuối và bưởi sạch bệnh, từ đó cung ứng cho nông dân trồng thí điểm và nhân rộng mô hình.

 

2. Quy mô và phạm vi thực hiện dự án

 

Sau 3 năm triển khai, dự án đã hỗ trợ hơn 100 hộ dân tại các huyện Phú Ninh, Tiên Phước, Đông Giang và Duy Xuyên. Người dân được cung cấp cây giống nuôi cấy mô, vật tư nông nghiệp, phân bón và đặc biệt là được hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc theo quy trình phù hợp với giống mới. Tổng diện tích trồng thí điểm và nhân rộng mô hình đạt hơn 10 ha, tập trung chủ yếu vào hai đối tượng cây trồng chính là chuối và bưởi.

 

Việc lựa chọn chuối và bưởi làm cây trồng chủ lực trong dự án được đánh giá là phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và khí hậu của nhiều vùng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đây là hai loại cây ăn quả có giá trị kinh tế, nhu cầu thị trường ổn định và có khả năng thích nghi tương đối tốt nếu được lựa chọn giống phù hợp.

 

https://vigen.vn/wp-content/uploads/2025/10/cay-chuoi-cay-mo-tai-vigen_11zon.webp

 

3. Hiệu quả bước đầu từ cây chuối nuôi cấy mô

 

Theo ông Huỳnh Hữu Thắng, việc phát triển cây chuối nuôi cấy mô tại các huyện Phú Ninh, Tiên Phước, Đông Giang và Duy Xuyên là cần thiết và hợp lý. Qua quá trình thực hiện, dự án đã sản xuất và cung cấp khoảng 10.000 cây chuối lùn già nuôi cấy mô, trong đó Đông Giang được cấp 4.000 cây, Tiên Phước 2.000 cây và Phú Ninh 4.000 cây. Ngoài ra, khoảng 5.000 cây chuối dạ hương và chuối tiêu hồng cũng được phân bổ cho các hộ dân huyện Duy Xuyên trồng trong vườn nhà.

 

Thực tế khảo sát cho thấy, cây chuối nuôi cấy mô thích nghi khá tốt với điều kiện đất đai tại nhiều địa phương. Tại xã Ba, huyện Đông Giang, 4.000 cây chuối lùn già được hỗ trợ cho 7 hộ dân có đất sản xuất. Các hộ dân đánh giá cây sinh trưởng tốt trên đất đồi, đất vườn rừng, khả năng bám trụ và phát triển ổn định.

 

Tại các xã Duy Phước, Duy Tân, Duy Hòa, Duy Châu, Duy Trung và Duy Trinh thuộc huyện Duy Xuyên, gần 50 hộ dân đã tiếp cận giống chuối tiêu hồng và chuối dạ hương nuôi cấy mô với tổng diện tích trồng khoảng 2,5 ha. Nhiều vườn chuối đã cho thu hoạch, mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.

 

Ở hai huyện Phú Ninh và Tiên Phước, cây chuối nuôi cấy mô cũng cho thấy khả năng thích nghi tốt. Ông Hồ Tài, xã Tiên Lộc, huyện Tiên Phước chia sẻ rằng so với chuối bản địa, chuối nuôi cấy mô có năng suất và sản lượng cao hơn rõ rệt, mỗi buồng có hơn 10 nải, giá bán tốt. Đặc biệt, giống chuối mô ít xuất hiện nấm bệnh, trong khi chuối bản địa thường chỉ cho 1–2 lứa là bắt đầu bị bệnh và suy thoái.

 

Những kết quả này cho thấy tiềm năng lớn của cây chuối nuôi cấy mô trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế và thay đổi tập quán canh tác truyền thống của nông dân. Các mô hình sản xuất giống cây nuôi cấy mô sạch bệnh, đồng đều hiện nay cũng được giới thiệu và phát triển tại https://vigen.vn/, góp phần thúc đẩy xu hướng ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.

 

4. Những khó khăn khi triển khai cây bưởi nuôi cấy mô

 

Bên cạnh những tín hiệu tích cực từ cây chuối, việc triển khai cây bưởi nuôi cấy mô và vi ghép lại gặp không ít khó khăn. Dự án đã hỗ trợ 3.000 cây bưởi giống vi ghép, ghép mắt các loại cho 79 hộ dân tại 4 huyện, trồng thâm canh trên diện tích khoảng 6 ha. Tuy nhiên, tỷ lệ cây chết khá cao, có nơi lên đến 40%, gây tâm lý e ngại cho người dân.

 

Tại thôn Thu Bồn Đông, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, nhiều hộ dân như ông Trần Văn Hóa, ông Thân Đức Có, ông Cao Thành, ông Phan Nhi, ông Bùi Văn Tuấn được hỗ trợ mỗi hộ 25 cây bưởi giống. Dù chăm sóc kỹ lưỡng, vườn bưởi của ông Hóa chỉ còn lại 10 cây sống sót. Theo ông Hóa, đất đai khu vực này vốn không phù hợp với cây ăn quả lâu năm. Trước đó, gia đình từng trồng cam nhưng chỉ thu hoạch được 1–2 vụ rồi cây chết dần. Ngoài ra, cây bưởi nuôi cấy mô có kích thước nhỏ, là giống mới nên nếu người dân thiếu kinh nghiệm chăm sóc thì rất khó đạt hiệu quả.

 

Ngay cả tại huyện Tiên Phước, nơi được đánh giá là khá phù hợp với cây bưởi, tình hình cũng không mấy khả quan. Ông Lê Văn Thọ, Trưởng trạm Khuyến nông – Khuyến lâm huyện Tiên Phước cho biết, trong khi cây chuối phát triển tốt thì cây bưởi da xanh và bưởi Tiên Hiệp vi ghép lại có tỷ lệ sống thấp. Nhiều cây bị chết héo hoặc nhiễm sâu vẽ bùa, buộc người dân phải sử dụng thuốc đặc trị, làm tăng chi phí và rủi ro sản xuất.

 

5. Bài học kinh nghiệm và định hướng phát triển trong thời gian tới

 

Thực tiễn triển khai dự án cho thấy, công nghệ nuôi cấy mô mang lại nhiều tiềm năng nhưng không phải loại cây trồng nào cũng phù hợp với mọi vùng sinh thái. Việc lựa chọn giống, đánh giá thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu và trình độ canh tác của người dân là yếu tố then chốt quyết định thành công của mô hình.

 

Đối với cây chuối, nuôi cấy mô đã chứng minh hiệu quả rõ rệt về năng suất, khả năng chống chịu bệnh và giá trị kinh tế. Trong khi đó, cây bưởi nuôi cấy mô cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện quy trình kỹ thuật, đồng thời phải có sự hướng dẫn sát sao hơn cho người dân trong giai đoạn chăm sóc ban đầu.

 

Trong tương lai, việc phát triển cây ăn quả nuôi cấy mô tại Quảng Nam cần gắn với quy hoạch vùng trồng phù hợp, đào tạo kỹ thuật cho nông dân và liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. Các dòng giống cây ăn quả, cây trồng nuôi cấy mô chất lượng cao hiện nay cũng đang được thương mại hóa và giới thiệu tại https://vigen.vn/nhan-giong-dua-mo-va-ghep-khac-gi/, mở ra cơ hội tiếp cận nguồn giống sạch bệnh, đồng đều và phù hợp với xu thế nông nghiệp hiện đại.

 

Từ những kết quả và hạn chế của dự án, có thể khẳng định rằng nuôi cấy mô là hướng đi đúng trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, để công nghệ này thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà khoa học, cơ quan quản lý và người nông dân, nhằm lựa chọn đúng cây trồng, đúng vùng sinh thái và áp dụng đúng quy trình kỹ thuật.



注释